So với pháp luật Việt Nam, cam kết sở hữu trí tuệ trong CPTPP còn mở rộng ra cả âm thanh, và khuyến khích các nước bảo hộ cả mùi. Các quy định về sở hữu trí tuệ trong CPTPP chính là kế thừa toàn bộ chương 18 gồm 83 điều của Hiệp định TPP. Tuy nhiên, CPTPP hoãn thi hành với 10 nội dung của chương 1817 về đối tượng được cấp bằng độc quyền sáng chế và thời hạn bảo hộ; về bảo hộ dữ liệu thử nghiệm bí mật hoặc dữ liệu bí mật khác; về bảo hộ thuốc sinh học; về thời hạn bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan; về các biện pháp bảo vệ quyền bằng công nghệ; về thông tin các nội dung quản lý của quyền sở hữu trí tuệ; về bảo hộ tín hiệu cáp và tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa; về chế tài và khu vực an toàn. Cam kết TPP bảo hộ cả mùi hương, âm thanh. Hãy cùng Tư vấn Blue tìm hiểu những quy định này nhé.
Khuyến khích bảo hộ về mùi
Bảo hộ quyền SHTT là vấn đề hết sức quan trọng, cho nên Hiệp định TPP đã dành hẳn một chương riêng với 83 điều để điều chỉnh các vấn đề về sáng chế, nhãn hiệu, bản quyền, bí mật thương mại cũng như các vấn đề khác về quyền SHTT mà các thành viên đồng ý hợp tác.
Đối với nhãn hiệu, Điều 18.18 CPTPP yêu cầu “không Bên nào được từ chối đăng ký một nhãn hiệu chỉ với lý do rằng dấu hiệu cấu thành nhãn hiệu đó là âm thanh. Thêm vào đó, mỗi bên phải nỗ lực hết sức để đăng ký nhãn hiệu mùi…”. Đáng nói, Việt Nam chỉ có 3 năm (muộn nhất là 30/12/2021) phải thực hiện nghĩa vụ bảo hộ nhãn hiệu dưới hình thức âm thanh.
Những quy định này được xây dựng trên cơ sở các chuẩn mực quy định tại Hiệp định TRIPS (Bảo vệ sở hữu trí tuệ) của WTO, tuy nhiên có bổ sung một số yêu cầu, quy định cao hơn, khắt khe hơn so với các quy định của các điều ước quốc tế hiện hành, đặc biệt trong vấn đề đảm bảo thực thi pháp luật về bảo hộ quyền SHTT.
Thứ trưởng Bộ Công Thương Trần Quốc Khánh cho hay, cam kết TPP có những thứ mà chúng ta chưa hề nghĩ tới như bảo hộ quyền tác giả cả mùi hương, âm thanh. Đó là thách thức thực sự với cộng đồng doanh nghiệp và cả xã hội.
Đây là vấn đề rất đáng lo ngại khi làn sóng đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam có thể sẽ làm “bùng nổ” các tranh chấp về SHTT. Không phải ngẫu nhiên mà khi đầu tư vào Việt Nam, các tập đoàn lớn nước ngoài đều đề nghị Chính phủ Việt Nam cam kết chống vi phạm quyền SHTT của họ.
Điều này đặt các DN Việt Nam và toàn bộ nền kinh tế vào trạng thái không dễ dàng và tốn kém khi muốn sớm tiếp cận, sử dụng các thành tựu khoa học công nghệ của thế giới. Đặc biệt là khi thực hiện các quy định của TPP về bảo hộ đối với dược phẩm, trong đó có vấn đề gay cấn là bảo hộ cơ sở dữ liệu thử nghiệm, bảo hộ quyền SHTT đối với nông hóa phẩm.
Xử lý hình sự hành vi vi phạm sở hữu trí tuệ
Một điểm cần lưu ý là hiện nay Việt Nam vẫn chỉ áp dụng các biện pháp hành chính để xử lý các hành vi vi phạm quyền SHTT. Nay TPP đã hình sự hóa việc xử lý các hành vi này. Tất nhiên việc xử lý sẽ tùy theo mức độ để có biện pháp hành chính, cảnh cáo hoặc phạt tù tương ứng. Tuy nhiên, nếu các DN tiếp tục có hành vi vi phạm bản quyền, nguy cơ phá sản là rất cao.
Về mặt phạm vi đối tượng được bảo hộ quyền SHTT cũng như nội dung của quyền cần được bảo hộ, có một số quy định tại Việt Nam cần rà soát, chỉnh sửa hệ thống pháp luật hiện hành về SHTT thì mới tương thích với Hiệp định TPP. Đồng thời, Việt Nam cũng phải gia nhập thêm một số điều ước quốc tế về bảo hộ quyền SHTT mà TPP yêu cầu như Hiệp ước quyền tác giá năm 1996, hiệp ước về biểu diễn và bản ghi âm năm 1996…
Tuy nhiên, vấn đề thực thi pháp luật về bảo hộ quyền SHTT còn nhiều bất cập, đây cũng chính là điểm yếu nhất của Việt Nam hiện nay khiến cho tình trạng vi phạm quyền SHTT còn khá nặng nề. Ông Lê Ngọc Lâm, Phó Cục trưởng Cục SHTT cho biết hiện nay năng lực của cơ quan này không đủ đáp ứng nhu cầu đăng ký bảo hộ SHTT đang tăng nhanh trong xã hội
Nguyên nhân của tình trạng này là do hệ thống cơ quan thực thi pháp luật bảo hộ quyền SHTT hiện nay còn yếu và thiếu. Bên cạnh đó, đội ngũ nhân lực trong lĩnh vực này cũng mỏng và yếu; thủ tục hành chính phức tạp, phiền hà…
Ví dụ, chúng ta chưa có tòa chuyên trách về SHTT. Trên thực tế, nhiều trường hợp tranh chấp giữa các doanh nghiệp về nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp… không có tòa chuyên ngành thụ lý, giải quyết. Tòa dân sự lại không có các thẩm phán chuyên trách về SHTT nên chưa xử được các vụ tranh chấp này.
Đây là thách thức không nhỏ bởi việc thực hiện các quy định của Hiệp định TPP đòi hỏi Việt Nam không chỉ thay đổi quy định của pháp luật mà còn phải đổi mới tư duy, thay đổi cả phương pháp tiếp cận và phong cách làm việc.
Mọi thắc mắc quý khách vui lòng liên hệ Tư vấn Blue để được tư vấn miễn phí.